Kiến (tên khoa học: Formicidae) là một họ côn trùng thuộc bộ Cánh màng. Các loài trong họ này có tính xã hội cao, có khả năng sống thành tập đoàn lớn có tới hàng triệu con. Nhiều tập đoàn kiến còn có thể lan tràn trên một khu vực đất rất rộng, hình thành nên các siêu tập đoàn. Các tập đoàn kiến đôi khi được coi là các siêu cơ quan vì chúng hoạt động như một thực thể duy nhất.
Phân loại và tiến hóa
Kiến hóa thạch trong hổ phách Baltic.
Vespoidea
Sierolomorphidae
Tiphiidae
Sapygidae
Mutillidae
Pompilidae
Rhopalosomatidae
Formicidae
Vespidae
Scoliidae
Vị trí phát sinh loài của họ Formicidae.
Họ Formicidae thuộc bộ Hymenoptera, bộ này cũng bao gồm sawfly, ong và wasp. Kiến nằm cùng nhánh với ong Vò vẽ. Phân tích phát sinh loài cho thấy kiến tách ra từ Kỷ Creta-giữa cách đây khoảng 110 đến 130 triệu năm. Sau khi thực vật có hoa tách ra cách đây khoảng 100 triệu năm kiến đã đa dạng hóa và được cho là thống trị chủ yếu vào khoảng cách đây 60 triệu năm. Năm 1966, E. O. Wilson và đồng sự của ông đã xác đĩnh các hóa thạch kiến (loài Sphecomyrma freyi) sống trong kỷ Creta. Tiêu bản này nằm trong hổ phách được định tuổi là hơn 80 triệu năm và mang các đặc điểm của kiến và wasp.[5] Sphecomyrma có thể kiếm ăn trên mặt đất nhưng một số tác giả dựa trên các nhóm nguyên thủy Leptanillinae và Martialinae nên các loài kiến nguyên thủy có thể là các loài săn mồi dưới mặt đất.
Trong suốt kỷ Creta, một vài loài kiến nguyên thủy phân bố rộng khắp trên siêu lục địa Laurasia (bán cầu bắc). Chúng hiếm gặp so với các loài côn trùng khác, và chỉ chiếm 1% trong tổng các cá thể côn trùng. Kiến trở nên phổ biến sau sự kiện tỏa nhánh thích nghi vào đầu kỷ Paleogen. Vao Oligocene và Miocene kiến chiếm 20-40% tất cả các côn trùng được tìm thất trong hầu hết các trầm tích hóa thạch chính. Một trong số các loài sống trong Eocene thì còn khoảng 1/10 các chi hiện còn tồn tại đến ngày nay. Các chi còn tồn tại đến ngày nay chiếm 56% trong các chi được phát hiện trong hổ phách vùng Baltic (đầu Oligocene), và 92% các chi trong hổ phách ở Dominica (xuất hiện đầu Miocene).
Termite, đôi khi là tên gọi của loài “kiến trắng”, không phải là kiến và thuộc bộ Isoptera. Termite thực tế có quan hệ rất gần gũi với gián và mantidae. Termite có kim chích nhưng rất khác biệt về phương thức sinh sản. Cấu trúc xã hội tương tự có vai trò quan trong trong tiến hóa hội tụ.[8] Kiến nhung trông giống kiến lớn nhưng thực ra là những con wasp cái không cánh.
Phân bố và đa dạng hóa
Vùng Số loài[11]
Neotropic 2162
miền Tân bắc 580
Châu Âu 180
Châu Phi 2500
Châu Á 2080
Melanesia 275
Úc 985
Polynesia 42
Kiến được tìm thấy trên tất cả các lục địa trừ Nam Cực, và chỉ có một vài quần đảo lớn như Greenland, Iceland, các phần của Polynesia và Hawaii thì không có các loài kiến bản địa.[12][13] Kiến chiếm một dãi các hốc sinh thái rộng, và có thể khai thác một dải rộng các nguồn thực phẩm hoặc trực tiếp hoặc là các động vật ăn cỏ, săn mồi và ăn xác chết gián tiếp. Hầu hết các loài kiến là động vật ăn tạp nhưng một vài loài chỉ ăn một thứ đặc trưng. Sự thống trị sinh thái của chúng có thể đo đạc thông qua sinh khối của chúng, và theo ước tính trong các môi trường khác nhau cho thấy rằng chúng đóng góp khoảng 15-20% (trung bình gần 25% ở các vùng nhiệt đới) trong tổng sinh khối động vật đất liền, cao hơn cả sinh khối của động vật có xương sống.[14]
Kiến có kích thước thay đổi từ 0,75 đến 52 milimét (0,030 đến 2,0 in),[15][16] loài lớn nhất là hóa thạch của Titanomyrma giganteum, kiến chúa có chiều dài 6 xentimét (2,4 in) với sải cách 15 xentimét (5,9 in).[17] Kiến có nhiều màu sắc khác nhau, hầu hết chúng có màu đỏ hoặc đen, nhưng một vài loài có màu lục và các loài ở vùng nhiệt đới có ánh kim loại. Hơn 12.000 loài kiến hiện đã được phát hiện (với ước tính vào khoảng 22.000 loài) (xem danh sách các chi kiến), trong đó đa dạng hóa lớn nhất là ở các vùng nhiệt đới. Các nghiên cứu về phân loại học vẫn đang tiến hành để giải quyết những tồn tại liên quan đến họ kiến. Cơ sở dữ liệu các loài kiến như “AntBase” và “Hymenoptera Name Server” giúp theo dõi các loài kiến đã biết và các loài mới được miêu tả.[18] Việc dễ dàng nghiên cứu các loài kiến như là một loài chỉ thị trong các hệ sinh thái là một thuận lợi cho nghiên cứu đa dạng sinh học.
Cuộc sống
Các bộ phận của một kiến thợ (Pachycondyla verenae).
Hình chụp gần cho thấy hàm dưới lồi ra và cặp mắt tuy nhỏ nhưng phức tạp của loài kiến.
Tổ kiến
Thông thường có khoảng 100000 con kiến trong một đàn nhưng tất cả chúng chỉ có một mẹ (được gọi là kiến chúa). Những con kiến mà mắt thường chúng ta thường hay nhìn thấy là kiến thợ. Công việc của chúng là chăm sóc kiến chúa, ấp trứng, chuyển trứng, nuôi kiến con, tìm kiếm thức ăn, đào đất xây dựng tổ, canh gác tổ (kiến lính)…Tất cả những con kiến thợ này đều là kiến cái nhưng chúng không thể sinh sản được vì cơ cấu giới tính của chúng chưa phát triển đầy đủ. Các con kiến trong mỗi tổ phân biệt với những con cùng loài khác tổ bằng mùi.
Kiến chúa cái sống trong phòng chúa ở giữa tổ, chuyên đẻ trứng suốt đời. Những trứng đó sau này sẽ là “thành viên” lao động của tổ.
Sinh sản và tự vệ
Hầu hết kiến đều không có cánh, khi chúng sống trong tổ trong thời gian dài và được che chở, nơi này sẽ tạo ra cánh cho chúng. Trong một khoảng thời gian ngắn mỗi năm, thường là vào những mùa ấm áp hay oi bức, kiến bay đầy trời. Đó chính là những con kiến đực và cái (đã trưởng thành, có thể sinh sản được) đang phối giống. Phối giống xong, con đực chết, cánh của những con đực rụng xuống cộng với phần cơ bắp của chúng chính là thức ăn duy trì sự sống cho con cái để sản sinh ra những con kiến thợ đầu tiên. Những con kiến thợ này đi kiếm ăn cho các con đẻ sau và cho kiến chúa.
Một số kiến thợ thành kiến bảo vệ tổ, chúng tăng trưởng rất nhanh và giúp bảo vệ tổ bằng cách tiêm, cắn axit vào kẻ thù. Một số loài khác dùng răng để đuổi các con kiến khác khỏi tổ của mình.
Thức ăn
Kiến ăn nhiều loại thức ăn. Một số ăn hạt giống, săn động vật khác và có cả loài ăn nấm… nhưng hầu hết chúng thích đồ ngọt & mật của rệp vừng. Hầu hết những gì chúng làm được là do bản năng (nghĩa là chúng không phải nghĩ hay tập làm những công việc này để làm như thế nào?). Các con kiến tìm mồi ở khắp mọi nơi, đôi khi lấy của các tổ khác.
Việc di chuyển thức ăn của chúng tương đối thuận lợi do có tính tập thể cao, chúng cùng nhau rìu thức ăn về tổ thành từng đàn, theo từng hàng lối nghiêm chỉnh.
Kiến ba khoang
Kiến ba khoang có tên khoa học là Paederus fuscipes, thuộc Họ Staphilinidae (cánh cụt), bộ Cánh cứng. Loài côn trùng này có thân mình thon, dài như hạt thóc (dài 1-1,2 cm, ngang 2-3mm), có hai màu đỏ và đen, nhìn giống con kiến; do đó, người ta hay gọi với nhiều tên gọi khác nhau như kiến hoang, kiến kim, kiến lác, kiến gạo, cằm cặp, kiến nhốt, kiến cong,[2]…
Loại bọ này không đốt hay cắn nhưng do trong dịch cơ thể của bọ có chứa pederin, một loại chất độc gây rộp, phỏng da, và Paederus dermatitis, một loại viêm da khi bị côn trùng đốt.[3] Loài này là một loài côn trùng ăn thịt côn trùng khác, chuyên săn rầy trên đồng ruộng.[4]
Khi bị kiến ba khoang bám trên da, không nên dùng tay giết kiến mà khuyến cáo nên chỉ thổi kiến đi. có tên khoa học là Paederus fuscipes[2], thuộc Họ Staphilinidae (cánh cụt), bộ Cánh cứng. Loài côn trùng này có thân mình thon, dài như hạt thóc (dài 1-1,2 cm, ngang 2-3mm), có hai màu đỏ và đen, nhìn giống con kiến; do đó, người ta hay gọi với nhiều tên gọi khác nhau như kiến hoang, kiến kim, kiến lác, kiến gạo, cằm cặp, kiến nhốt, kiến cong,[2]…
Loại bọ này không đốt hay cắn nhưng do trong dịch cơ thể của bọ có chứa pederin, một loại chất độc gây rộp, phỏng da, và Paederus dermatitis, một loại viêm da khi bị côn trùng đốt.[3] Loài này là một loài côn trùng ăn thịt côn trùng khác, chuyên săn rầy trên đồng ruộng.[4]
Khi bị kiến ba khoang bám trên da, không nên dùng tay giết kiến mà khuyến cáo nên chỉ thổi kiến đi.
Kiến đen hay Kiến vườn đen
Lasius niger
Kiến thợ dài 4–5mm.
Kiến chúa dài 15mm.
Có màu nâu đậm hoặc đen
Có 1 đốt ở thắt lưng (cuống nhỏ).
Không chích.
Vòng đời
Kiến chúa trú đông trong đất. Trứng được đẻ vào cuối mùa xuân. Ấu trùng nở sau 3-4 tuần.
Ấu trùng sống nhờ các chất tiết ra từ tuyến nước bọt của kiến chúa cho đến khi trưởng thành.
Kiến thợ tiếp tục chăm sóc ấu trùng, xây tổ và tìm thức ăn.
Kiến đực khỏe cũng được sinh ra trong mùa sinh sản.
Tập quán
Kiến thợ kiếm ăn theo các lối mòn được xác định rõ xung quanh các nguồn thức ăn. Thực phẩm ngọt là thức ăn chúng ưa thích nhưng các thức ăn có hàm lượng protein cao cũng bị chúng tấn công.
Đặc tính bầy đàn – giao phối giữa Kiến chúa và kiến đực xảy ra ở trên cánh vào giữa cho đến cuối mùa hè. Kiến đực chết sau khi giao phối.
Vị trí tổ – thường ở ngoài trời trong đất và dưới các tấm đá lát ở phía có nắng của các tòa nhà. Vị trí của tổ có thể được xác định bởi sự xuất hiện của bột đất mịn xung quanh cửa tổ.
Kiến lửa
Kiến chúa dài 15mm.
Kiến thợ dài 3–6mm.
Đầu và thân có màu đồng hoặc nâu, bụng màu tối hơn.
Solenopsis có râu hai nhánh rất đặc biệt, thường nhìn thấy ở phía trước kiến cái sinh sản.
Vòng đời
Sau khi làm thành đàn trong tổ và giao phối, kiến chúa tìm một nơi thích hợp để đẻ trứng. Khi đó, nó có thể để đến 125 quả trứng vào cuối mùa xuân.
Ấu trùng nở sau 8 đến 10 ngày và giai đoạn nhộng kéo dài từ 9 đến 16 ngày.
Ấu trùng sống nhờ các chất tiết ra từ tuyến nước bọt của kiến chúa và cơ cánh bị rách cho đến khi những con kiến thợ đầu tiên ra đời. Sau khi lứa ấu trùng đầu tiên này trở thành kiến thợ, vai trò của kiến chúa là tiếp tục đẻ trứng – kiến chúa có thể đẻ đến 1500 trứng một ngày.
Kiến thợ tiếp tục chăm sóc ấu trùng, xây tổ và tìm thức ăn.
Kiến đực khỏe cũng được sinh ra trong mùa sinh sản
Tập quán
Thức ăn của kiến thợ bao gồm xác động vật chết, kể cả côn trùng, giun đất và động vật có xương sống.
Đặc tính bầy đàn – giao phối giữa Kiến chúa và kiến đực sinh sản xảy ra ở trên cánh vào giữa cho đến cuối mùa hè. Kiến đực chết sau khi giao phối.
Vị trí tổ – Vị trí của tổ có thể được xác định bởi sự xuất hiện của các đống đất cao 40cm hoặc cạnh các vật nằm trên mặt đất chẳng hạn như khúc gỗ.
Nếu bị gây hấn, chúng phản ứng rất dữ dội và có thể chích rất đau, tạo mụn mủ sau khoảng 48 giờ.
Loài kiến này là loài dịch hại chính trong nông nghiệp và ở các khu đô thị, phá hoại mùa màng và tấn công các khu dân cư cả trong nhà và ngoài trời.
VIET NAM PEST CONTROL